Ngắt trong 8051
Mục tiêu
Kết thúc bài học này, bạn có thể:
Ø Phân biệt cơ chế ngắt với hỏi vòng
Ø Nắm rõ các loại ngắt trong 8051
·
Ngắt timer/counter
·
Ngắt ngoài
·
Ngắt truyền thông nối tiếp
Ø Lập trình các ngắt
·
Trình phục vụ ngắt là gì?
·
Cho phép ngắt và cấm ngắt
·
Thiết lập mức ưu tiên của các ngắt
Giới thiệu
Ngắt (Interrupt) - như tên của nó, là một số sự kiện khẩn cấp bên trong
hoặc bên ngoài bộ vi điều khiển xảy ra, buộc vi điều khiển tạm dừng thực hiện
chương trình hiện tại, phục vụ ngay lập tức nhiệm vụ mà ngắt yêu cầu – nhiệm vụ
này gọi là trình phục vụ ngắt (ISR: Interrupt
Service Routine).
Trong
bài này ta tìm hiểu khái niệm ngắt và lập trình các ngắt trong bộ vi điều khiển
8051.
1. Các ngắt của 8051
1.1 Phân biệt
cơ chế ngắt với hỏi vòng
Lấy ví dụ: Bộ vi điều khiển đóng vai trò như một vị bác sĩ, các thiết
bị kiểm soát bởi vi điều khiển được coi như các bệnh nhân cần được bác sĩ phục
vụ.
Bình
thường, vị bác sĩ sẽ hỏi thăm lần lượt từng bệnh nhân, đến lượt bệnh nhân nào
được hỏi thăm nếu có bệnh thì sẽ được bác sĩ phục vụ, xong lại đến lượt bệnh
nhân khác, và tiếp tục đến hết. Điều này tương đương với phương pháp thăm dò - hỏi vòng (Polling) trong
vi điều khiển.
Cứ
như thế, nếu chúng ta có 10 bệnh nhân, thì bệnh nhân thứ 10 dù muốn hay không
cũng phải xếp hàng chờ đợi 09 bệnh nhân trước đó. Giả sử trường hợp bệnh nhân
thứ 10 cần cấp cứu thì sao? Anh ta sẽ gặp nguy cấp trước khi đến lượt hỏi thăm
của bác sĩ mất! L
Nhưng, nếu anh ta sử dụng phương pháp “ngắt” thì mọi chuyện sẽ ổn ngay. Lúc đó
vị bác sĩ sẽ ngừng mọi công việc hiện tại của mình, và tiến hành phục vụ trường
hợp khẩn cấp này ngay lập tức, xong việc bác sĩ lại trở về tiếp tục công việc
đang dở. Điều này tương đương với phương pháp ngắt (Interrupts) trong
vi điều khiển.
Trở
lại với bộ vi điều khiển của chúng ta: 1 bộ vi điều khiển có thể phục vụ cho nhiều
thiết bị, có 2 cách để thực hiện điều này đó là sử dụng các ngắt (Interrupts) và thăm dò (polling):
Ø Trong
phương pháp sử dụng ngắt: mỗi khi
có một thiết bị bất kỳ cần được phục vụ thì nó báo cho bộ vi điều khiển bằng
cách gửi một tín hiệu ngắt. Khi nhận
được tín hiệu ngắt thì bộ vi điều
khiển ngừng tất cả những gì nó đang thực hiện để chuyển sang phục vụ thiết bị
gọi ngắt. Chương trình ngắt được gọi là trình phục vụ ngắt ISR (Interrupt Service Routine) hay còn gọi là trình quản lý ngắt
(Interrupt handler). Sau khi phục vụ ngắt xong, bộ vi xử lý lại quay trở lại
điểm bị ngắt trước đó và tiếp tục thực hiện công việc.
Ø Trong
phương pháp thăm dò: bộ vi điều khiển kiểm tra liên tục
tình trạng của tất cả các thiết bị, nếu thiết bị nào có yêu cầu thì nó dừng lại
phục vụ thiết bị đó. Sau đó nó tiếp tục kiểm tra tình trạng của thiết bị kế
tiếp cho đến hết. Phương pháp thăm dò rất đơn giản, nhưng nó lại rất lãng phí
thời gian để kiểm tra các thiết bị kể cả
khi thiết bị đó không cần phục vụ. Trong trường hợp có quá nhiều thiết bị
thì phương án thăm dò tỏ ra không hiệu quả, gây ra chậm trễ cho các thiết bị
cần phục vụ.
Điểm mạnh của phương pháp ngắt là:
Ø Bộ vi điều khiển có thể phục vụ được rất nhiều thiết bị (tất nhiên là không tại
cùng một thời điểm). Mỗi thiết bị có thể nhận được sự chú ý của bộ vi điều
khiển dựa trên mức ưu tiên được gán
cho nó. Đối với phương pháp thăm dò thì không thể gán mức ưu tiên cho các thiết
bị vì nó kiểm tra tất cả mọi thiết bị theo kiểu hỏi vòng.
Ø Quan trọng hơn, trong phương pháp ngắt thì bộ vi điều khiển
còn có thể che (làm lơ) một yêu cầu phục
vụ của thiết bị. Điều này lại một lần nữa không thể thực hiện được trong phương
pháp thăm dò.
Ø Lý do quan trọng nhất mà phương pháp ngắt được ưu chuộng là
vì nó không lãng phí thời gian cho các thiết bị không cần phục vụ. Còn phương
pháp thăm dò làm lãng phí thời gian của bộ vi điều khiển bằng cách hỏi dò từng
thiết bị kể cả khi chúng không cần phục vụ.
Ví
dụ trong các bộ định thời được bàn đến ở các bài trước ta đã dùng một vòng lặp
kiểm tra và đợi cho đến khi bộ định thời quay trở về 0. Trong ví dụ đó, nếu sử
dụng ngắt thì ta không cần bận tâm đến việc kiểm tra cờ bộ định thời, do vậy không
lãng phí thời gian để chờ đợi, trong khi đó ta có thể làm việc khác có ích hơn.
1.2 Sáu ngắt trong 8051
Thực
tế chỉ có 5 ngắt dành cho người dùng
trong 8051 nhưng các nhà sản xuất nói rằng có 6 ngắt vì họ tính cả lệnh RESET.
Sáu ngắt của 8051 được phân bố như sau:
1.
RESET: Khi chân
RESET được kích hoạt từ 8051, bộ đếm chương trình nhảy về địa chỉ 0000H.
Đây là địa chỉ bật lại nguồn.
2.
2 ngắt dành cho các bộ định thời: 1 cho Timer0 và
1 cho Timer1. Địa chỉ tương ứng của
các ngắt này là 000BH và 001BH.
3.
2 ngắt dành cho các ngắt phần cứng bên ngoài: chân 12 (P3.2) và 13 (P3.3) của cổng P3 là các ngắt phần
cứng bên ngoài INT0 và INT1 tương ứng. Địa chỉ tương ứng của
các ngắt ngoài này là 0003H và 0013H.
4.
Truyền thông nối tiếp:
có 1 ngắt chung cho cả nhận và truyền dữ liệu nối tiếp. Địa chỉ của ngắt này
trong bảng vector ngắt là 0023H.
1.3 Trình phục vụ ngắt
Đối
với mỗi ngắt thì phải có một trình phục
vụ ngắt (ISR) hay trình quản lý
ngắt để đưa ra nhiệm vụ cho bộ vi điều khiển khi được gọi ngắt. Khi một ngắt
được gọi thì bộ vi điều khiển sẽ chạy trình phục vụ ngắt. Đối với mỗi ngắt thì
có một vị trí cố định trong bộ nhớ để giữ địa chỉ ISR của nó. Nhóm vị trí bộ nhớ được dành riêng để lưu giữ địa chỉ
của các ISR được gọi là bảng vector ngắt. Xem Hình 1.
Hình 1: Bảng vector ngắt của 8051.
Trong
lập trình C trên Keil c cho 8051, chúng ta khai báo trình phục vụ ngắt theo cấu trúc sau:
Void Name (void)
interrupt X //( X: là số thứ tự của ngắt )
{
// chương trình phục vụ ngắt
}
Khi
đó địa chỉ ngắt sẽ được tự động tính bằng:
Interrupt Address = (X * 8) + 3
1.4 Quy trình khi thực hiện một ngắt
Khi
kích hoạt một ngắt bộ vi điều khiển thực hiện các bước sau:
Ø Nó hoàn thành nốt lệnh đang thực hiện và lưu địa chỉ của lệnh kế tiếp vào ngăn xếp.
Ø Nó cũng lưu tình trạng
hiện tại của tất cả các ngắt.
Ø Nó nhảy đến một vị trí cố định trong bộ nhớ được gọi là bảng vector ngắt, nơi lưu giữ địa chỉ của một trình phục vụ ngắt.
Ø Bộ vi điều khiển nhận địa chỉ ISR từ bảng vector ngắt và nhảy tới đó. Nó bắt đầu thực hiện trình
phục vụ ngắt cho đến lệnh cuối cùng của ISR
và trở về chương trình chính từ ngắt.
Ø Khi bộ vi điều khiển quay trở về nơi nó đã bị ngắt. Trước
hết nó nhận địa chỉ của bộ đếm chương trình PC từ ngăn xếp bằng cách kéo 02
byte trên đỉnh của ngăn xếp vào PC. Sau đó bắt đầu thực hiện tiếp các lệnh từ
địa chỉ đó.
1.5 Các bước cho phép và cấm ngắt
Khi bật lại nguồn thì tất cả mọi ngắt đều
bị cấm (bị che), có nghĩa là không có ngắt nào được bộ vi điều khiển đáp
ứng trừ khi chúng được kích hoạt.
Các
ngắt phải được kích hoạt bằng phần mềm để bộ vi điều khiển đáp ứng chúng. Có
một thanh ghi được gọi là thanh ghi cho phép ngắt IE (Interrupt Enable) – ở địa chỉ A8H chịu trách nhiệm về việc cho
phép và cấm các ngắt. Hình 2 trình
bày chi tiết về thanh ghi IE.
Hình 2: Thanh ghi cho phép ngắt IE.
Để
cho phép một ngắt ta phải thực hiện các bước sau:
Ø Nếu EA = 0 thì không có ngắt nào được đáp ứng cho dù bit
tương ứng của nó trong IE có giá trị
cao. Bit D7 - EA của thanh ghi IE
phải được bật lên cao để cho phép các bit còn lại của thanh ghi hoạt động được.
Ø Nếu EA = 1 thì
tất cả mọi ngắt đều được phép và sẽ được đáp ứng nếu các bit tương ứng của
chúng trong IE có mức cao.
Để
hiểu rõ điểm quan trọng này ta hãy xét ví
dụ 1.
Ví dụ 1:
Hãy
lập trình cho 8051:
a) cho phép ngắt nối tiếp, ngắt Timer0
và ngắt phần cứng ngoài 1 (EX1)
b) cấm ngắt Timer0
c) sau đó trình bày cách cấm tất cả mọi ngắt chỉ bằng một lệnh
duy nhất.
Lời giải:
#include<at89x51.h>
main()
{
//a)
IE=0x96; //1001 0110: lệnh này tương đương với 4
lệnh phía dưới
EA=1; //Cho phép sử dụng ngắt
ES=1; //Cho phép ngắt cổng nối tiếp
ET0=1; //Cho phép ngắt timer0
EX1=1; //Cho phép ngắt ngoài 1
//b)
ET0=0; //Cấm ngắt timer0
//c)
EA=0; //Cấm tất cả các ngắt
while(1)
{
//Chương
trình chính
//…
}
}
2. Lập trình các ngắt bộ định thời
Trong
các bài trước ta đã biết cách sử dụng các bộ định thời Timer0 và Timer1 bằng
phương pháp thăm dò. Trong phần này
ta sẽ sử dụng các ngắt để lập trình
cho các bộ định thời của 8051.
2.1 Cờ quay về 0 của bộ định thời và ngắt
Chúng
ta đã biết rằng cờ bộ định thời TF
được bật lên cao khi bộ định thời đạt giá trị cực đại và quay về 0 (Roll - over). Trong các bài trước
chúng ta cũng chỉ ra cách kiểm tra cờ TF
bằng một vòng lặp. Trong khi thăm dò cờ TF
thì ta phải đợi cho đến khi cờ TF
được bật lên. Vấn đề với phương pháp này là bộ vi điều khiển bị trói buộc trong
khi chờ cờ TF được bật và không thể
làm được bất kỳ việc gì khác.
Sử
dụng các ngắt sẽ giải quyết được vấn
đề này và tránh được sự trói buộc bộ vi điều khiển. Nếu bộ ngắt định thời trong
thanh ghi IE được phép thì mỗi khi
nó quay trở về 0 bộ vi điều khiển sẽ bị ngắt, bất chấp nó đang thực hiện việc
gì và nhảy tới bảng vector ngắt để phục vụ ISR.
Bằng cách này thì bộ vi điều khiển có thể làm những công việc khác cho đến khi
nó được thông báo rằng bộ định thời đã quay về 0. Xem hình 3 và ví dụ 2.
Hình 3: Ngắt bộ
định thời TF0 và TF1.
Ví dụ 2:
Hãy
viết chương trình nhận liên tục dữ liệu 8 Bit ở cổng P0 và gửi nó đến cổng P1
trong khi nó cùng lúc tạo ra một sóng vuông chu kỳ 200ms trên chân P2.1. Hãy sử dụng bộ Timer0 để tạo ra sóng
vuông, tần số của 8051 là XTAL = 11.0592MHz.
Lời giải:
Chu kỳ 200ms, vậy nửa chu kỳ là 100ms.
Ta có: 100ms/1,085ms=92.
Suy ra giá trị cần nạp cho timer0
là: -92 <=> A4H. Ta sử dụng timer0 8 bit.
#include<at89x51.h> //khai báo thu viện cho VÐK 89x51
main()
{
TMOD=0x02; //chọn timer0, chế độ 2, 8Bit tự nạp
lại
TL0=0xA4; //nạp giá trị cho TL0
TH0=0xA4; //nạp giá trị cho TH0
TR0=1; //khởi động timer0
IE=0x82;
//cho phép ngắt timer0
while(1)
//vòng lặp vô hạn
{
P1=~P0; //Cập nhật giá trị cho cổng P1 từ P0.
}
}
void songvuong(void) interrupt 1 //Khai báo trình phục vụ ngắt cho timer0
{
TR0=0; //Ngừng timer0
P2_1=~P2_1; //Đảo trạng thái chân
P2_1.
TR0=1; //Khởi động timer0
//Không
cần xóa cờ TF0, 8051 tự động xóa.
}
Hình 4: Mô phỏng
trên proteus: cập nhật liên tục cổng P1 từ P0, trong khi tạo xung ở chân P2.1
Hình 5: Sóng vuông
hiển thị trên Oscilloscope
Hãy
để ý những điểm dưới đây của chương trình trong ví dụ 2:
1.
Chúng ta cho phép ngắt bộ Timer0 với lệnh IE=0x82; trong chương trình chính main().
2.
Trong khi dữ liệu ở cổng P0 được nhận vào và chuyển liên tục
sang cổng P1 thì mỗi khi bộ Timer0 trở về 0, cờ TF0 được bật lên và bộ vi điều khiển
thoát ra khỏi hàm main() và đi đến địa chỉ 000BH để thực hiện ISR gắn liền với bộ Timer0.
3.
Trong trình phục vụ ngắt ISR của Timer0 ta thấy rằng không cần đến lệnh xóa cờ TF0 của timer0. Lý do
này là vì 8051 đã tự xoá cờ TF0 ngay khi
thoát khỏi ISR.
Ví dụ 3:
Hãy
viết lại chương trình ở ví dụ 2 để
tạo sóng vuông với mức cao kéo dài 1085ms và mức thấp dài 15ms với giả thiết tần số XTAL = 11.0592MHz. Hãy sử dụng bộ
định thời Timer1.
Lời giải:
Vì
1085ms/1.085ms=1000 nên ta cần sử dụng chế độ 1 của bộ định thời Timer1.
Các giá trị cần nạp cho timer1 là:
1085/1.085=1000 , -1000óFC18H
15/1.085=14 , -14óFFF2H
#include<at89x51.h>
bit a=0;
main()
{
TMOD=0x10; //chọn timer1, chế độ 1, 16Bit
TL1=0x18; //nạp giá trị cho TL1
TH1=0xFC; //nạp giá trị cho TH1
TR1=1; //khoi
dong timer1
IE=0x88;
//cho phép ngat
timer1
while(1) //vòng
lặp vô hạn
{
P1=~P0; //Cập nhật cổng P1
}
}
void songvuong(void) interrupt 3 //Khai báo trình phục vụ ngắt timer1
{
TR1=0; //Dừng timer1
if(a==0) //Nếu Xung
vuông đang ở mức thấp
{
P2_1=1; //Bật xung vuông lên cao
a=1; //Đặt
lại bit kiểm tra
TL1=0x18; //Nạp
lại TL1: Ứng với mức trễ phần cao
TH1=0xFC;
//Nạp lại TH1
}
Else //Nếu
Xung vuông đang ở mức cao
{
P2_1=0; //Lật xung xuống thấp
a=0; //Đặt lại bit kiểm
tra
TL1=0xF2; //Nạp
lại TL1: Ứng với mức trễ phần thấp TH1=0xFF; //Nạp lại TH1
}
TR1=1; //Khởi động
lại timer1
//Không cần
xóa cờ TF1, 8051 tự động xóa
}
Hình 6: Sóng
vuông hiển thị trên Oscilloscope
Lưu ý: Các xung được tạo ra ở các ví dụ trên không thật sự chính
xác, vì chưa tính đến hao phí của các lệnh cài đặt.
3 Lập trình các ngắt phần cứng bên ngoài
Bộ
vi điều khiển 8051 có 2 ngắt phần cứng bên ngoài ở chân 12 (P3.2) và chân 13 (P3.3) gọi là ngắt INT0
và INT1.
Như
đã nói ở trên thì chúng được phép và bị cấm bằng việc sử dụng thanh ghi IE. Nhưng cấu hình cho ngắt ngoài có
phần phức tạp hơn.Có hai mức kích hoạt cho các ngắt phần cứng ngoài: Ngắt theo mức và ngắt theo sườn.
Hình 7: Ngắt ngoài
INT0 và INT1
Dưới đây là mô tả hoạt động của mỗi
loại.
3.1 Ngắt theo mức
Ở
chế độ ngắt theo mức thì các chân INT0
và INT1 bình thường ở mức cao và nếu một tín hiệu ở mức thấp được cấp tới thì chúng ghi
nhãn ngắt. Sau đó bộ vi điều khiển dừng tất cả mọi công việc nó đang thực hiện
và nhảy đến bảng vector ngắt để phục vụ ngắt. Đây là chế độ ngắt mặc định khi cấp nguồn cho 8051.
Tín hiệu mức thấp tại chân INTx phải
được lấy đi trước khi thực hiện lệnh cuối cùng của trình phục vụ ngắt, nếu
không một ngắt khác sẽ lại được tạo ra, và vi điều khiển sẽ thực hiện ngắt liên
tục.
Để
rõ hơn chúng ta hãy xem ví dụ 4.
Ví dụ 4:
Giả
sử chân INT1 được nối đến công tắc bình
thường ở mức cao. Mỗi khi nó ấn xuống thấp phải bật một đèn LED ở chân P1.3 (bình thường Led tắt),
khi nó được bật lên nó phải sáng vài giây. Chừng nào công tắc được giữ ở trạng thái thấp đèn LED phải sáng
liên tục.
Lời giải:
#include<at89x51.h> //Khai báo thư viện cho VĐK 89x51
main() //Chương
trình chính
{
IE=0x84;
//cho phép ngắt ngoài 1
while(1)
//vòng
lặp vô hạn
{
//không làm gì
}
}
void nutan(void) interrupt 2 //Khai
báo trình phục vụ ngắt ngoài 1
{ //(mặc
định là ngắt theo mức)
int
a=50000; //Biến
đếm trễ
P1_3=0; //Cho Led sáng
while(a--){} //Trễ cho Led sáng vài
giây
P1_3=1; //Tắt Led
//Không
cần xóa cờ ngắt
}
Hình 8: Ấn công
tắc xuống sẽ làm cho đèn LED sáng một thời gian.
Hình 9: Nhưng nếu công
tắc được giữ ở trạng thái ấn thì đèn LED sáng liên tục.
Lưu ý:
·
Trong chương trình trên bộ vi điều
khiển quay vòng liên tục trong vòng lặp while(1) của chương trình chính. Mỗi khi công tắc trên chân P3.3 (INT1) được kích
hoạt thì bộ vi điều khiển thoát khỏi vòng lặp và nhảy đến bảng vector ngắt tại
địa chỉ 0013H. Trình ISR cho INT1 bật đèn LED lên giữ nó một lúc và
tắt nó trước khi trở về. Nếu trong lúc nó thực hiện lệnh cuối cùng để quay trở
về từ ISR mà chân INT1 vẫn còn ở mức thấp thì bộ vi điều khiển khởi tạo lại ngắt, ngắt lại xảy ra 1
lần nữa.
·
Do vậy, để giải quyết vấn đề này thì
chân INT1 phải được đưa lên cao trước
thời điểm lệnh cuối cùng của ngắt được thực hiện.
·
Có một cách khác để giải quyết triệt
để vấn đề trên: đó là sử dụng ngắt theo
sườn. Khi đó với mỗi 1 lần ấn phím, dù thế nào ngắt cũng chỉ thực hiện 1
lần.
·
Trước khi tìm hiểu ngắt theo sườn là gì? Ta hãy xem qua ngắt theo mức hoạt động như thế nào.
Ø Trích mẫu
ngắt theo mức
Các
chân P3.2 và P3.3 bình thường được dùng cho vào/ra
nếu các Bit INT0 và INT1 trong thanh ghi IE không được kích hoạt. Sau khi các
ngắt phần cứng trong thanh gi IE
được kích hoạt thì bộ vi điều khiển duy
trì trích mẫu trên chân INTx đối
với tín hiệu mức thấp 1 lần trong 1 chu
trình máy.
Theo
bảng dữ liệu từ nhà sản xuất của bộ vi điều khiển thì “chân ngắt phải được giữ ở mức thấp cho đến khi bắt đầu thực hiện trình
phục vụ ngắt ISR. Nếu chân INTx được đưa trở lại mức cao trước khi bắt đầu thực
hiện ISR thì sẽ chẳng có ngắt nào xảy ra”. Do vậy, để bảo đảm việc kích
hoạt ngắt phần cứng tại các chân INTx
phải đảm bảo rằng thời gian tồn tại tín hiệu mức thấp là khoảng 4 chu
trình máy và không được bé hơn, nếu không đủ lâu thì ngắt không được thực
hiện.
Tuy
nhiên trong quá trình kích hoạt ngắt
theo mức thấp nên nó lại phải đưa lên mức
cao trước khi ISR thực hiện lệnh
cuối cùng và lại theo bảng dữ liệu từ nhà sản xuất thì “nếu chân INTx vẫn ở mức thấp sau lệnh cuối cùng của trình phục vụ ngắt
thì một ngắt khác lại sẽ được kích hoạt”. Điều này do một thực tế là ngắt theo mức không được chốt.
Hình 10: Thời gian tối thiểu của xung ngắt theo mức thấp (XTAL =
11.0592MHz)
3.2 Ngắt theo sườn
Ngắt theo sườn là ngắt sẽ xảy ra khi có một sườn âm xuất hiện trên các chân ngắt của vi điều khiển. Điều này
làm cho ngắt theo sườn khắc phục được nhược điểm của ngắt theo mức như ta đã thấy ở trên.
Để
kích hoạt chế độ ngắt theo sườn thì
chúng ta phải viết chương trình cài đặt cho các bit của thanh ghi TCON:
Hình 11: Thanh ghi TCON.
Ø Các Bit
IT0 và IT1
Các
bit TCON.0 và TCON.2 được coi như là các bit IT0
và IT1 tương ứng. Đây là các bit xác
định kiểu ngắt theo sườn xung hay theo mức xung của các ngắt phần cứng trên
chân INT0 và INT1 tương ứng. Khi bật lại nguồn cả 2 bit này đều có mức 0 để biến chúng thành ngắt theo tín
hiệu mức thấp. Lập trình viên có thể
điều khiển một trong số chúng lên cao để chuyển ngắt phần cứng bên ngoài thành ngắt theo sườn.
Ø Các Bit
IE0 và IE1
Các
bit TCON.1 và TCON.3 còn được gọi là IE0
và IE1 tương ứng. Các bit này được
8051 dùng để bám kiểu ngắt theo sườn xung, nếu các bit IT0 và IT1 bằng 0 thì có nghĩa là các ngắt phần cứng là
ngắt theo mức thấp và các bit IE0 và IE1 sẽ không dùng đến. Các Bit IE0
và IE1 chỉ được 8051 dùng để chốt sườn xung từ cao xuống thấp trên
các chân INT0 và INT1. Khi có chuyển dịch sườn xung trên
chân INT0 (hay INT1) thì 8051 đánh dấu (bật lên cao) các bit IEx trên thanh ghi TCON và
nhảy đến bảng vector ngắt và bắt đầu thực hiện trình phục vụ ngắt ISR. Trong khi 8051 thực hiện ISR thì không có một sườn xung nào được
ghi nhận trên chân INT0 (hay INT1) để ngăn mọi ngắt trong ngắt. Chỉ
trong khi thực hiện lệnh cuối của trình phục vụ ngắt ISR thì các bit IEx mới được
8051 tự động xóa, và các chân ngắt lại hoạt động bình thường.
Ta
thấy rằng các bit IE0 và IE1 được 8051 sử
dụng bên trong để báo có một ngắt đang được xử lý hay không. Hay nói cách khác
là lập trình viên không phải quan tâm đến các bit này.
Ø Các Bit
TR0 và TR1
Đây
là những bit D4 và D6 (hay TCON.4 và TCON.6) của thanh ghi TCON. Các bit này đã
được giới thiệu ở các bài trước, chúng được dùng để khởi động và dừng các bộ
định thời Timer0 và Timer1 tương ứng.
Ø Các Bit
TF0 và TF1
Các
bit này là D5 (TCON.5) và D7 (TCON.7) của thanh ghi TCON mà đã được giới thiệu
ở các bài trước. Chúng được sử dụng bởi các bộ Timer0 và Timer1 tương ứng để
báo rằng các bộ định thời bị tràn hay quay về không.
Để
hiểu rõ sự khác biệt của ngắt theo sườn âm, ta xét ví dụ 5. Chú ý rằng sự khác nhau duy nhất giữa ví dụ 5 và ví dụ 4 là ở
lệnh chuyển ngắt INT1 về kiểu ngắt theo sườn. Khi sườn âm của tín hiệu được cấp đến chân INT1 thì đèn LED sẽ bật lên một lúc.
Đèn LED có thời gian sáng phụ thuộc vào độ trễ bên trong ISR của INT1. Trong ví dụ 4 do bản chất ngắt theo mức của ngắt thì đèn LED còn
sáng chừng nào tín hiệu ở chân INT1
vẫn còn ở mức thấp. Nhưng trong ví dụ 5 này để bật lại đèn LED thì xung
ở chân INT1 phải được đưa lên cao
rồi sau đó bị hạ xuống thấp để tạo ra một sườn
âm làm kích hoạt ngắt.
Ví dụ 5:
#include<at89x51.h> //Khai báo thư viện cho VĐK 89x51
main() //Chương
trình chính
{
IE=0x84;
//cho phép ngắt ngoài 1
IT1=1; //Thiết lập ngắt ngoài 1
theo sườn âm
while(1)
//vòng
lặp vô hạn
{
//không làm gì
}
}
void nutan(void) interrupt 2 //Khai
báo trình phục vụ ngắt ngoài 1
{ //(mặc
định là ngắt theo mức)
int
a=50000; //Biến
đếm trễ
P1_3=0; //Cho Led sáng
while(a--){} //Trễ cho Led sáng vài
giây
P1_3=1; //Tắt Led
//Không
cần xóa cờ ngắt
}
Hình 12:mô
phỏng ngắt ngoài 1 theo sườn âm:Dù công tắc được giữ, cũng chỉ có 1 ngắt xảy ra.
Ø Trình mẫu
ngắt theo sườn
Trước
khi kết thúc phần này ta cần trả lời câu hỏi: vậy thì ngắt theo sườn được trích
mẫu thường xuyên như thế nào? Trong các ngắt theo sườn, nguồn xung phải giữ ở mức cao tối thiểu là 1 chu kỳ máy, và xung thấp
cũng phải kéo dài 1 chu kỳ máy nữa để đảm bảo bộ vi điều khiển nhìn thấy
được sự chuyển dịch từ cao xuống thấp của sườn
âm.
Hình 13: Thời hạn xung tối thiểu để
phát hiện ra các ngắt theo sườn âm với tần số XTAL = 11.0592MHz
Sườn âm của xung được chốt bởi 8051 và
được giữ bởi thanh ghi TCON. Các bit
TCON.1 (IE0) và TCON.3 (IE1) giữ các sườn được chốt của chân INT0 và INT1 tương ứng
như chỉ ra trên hình 11. Chúng hoạt
động như các cờ “ngắt đang được phục vụ”
(Interrupt-in-server). Khi một cờ “ngắt
đang được phục vụ” bật lên thì nó báo rằng ngắt hiện nay đang được xử lý và
trên chân INTx này sẽ không có ngắt
nào được đáp ứng chừng nào ngắt này chưa được phục vụ xong. Đây giống như tín
hiệu báo bận ở máy điện thoại.
Ngoài
ra cần phải nhấn mạnh 2 điểm dưới đây khi quan tâm đến các bit IE0 và IE1 của thanh ghi TCON:
·
Khi các trình phục vụ ngắt ISR kết thúc: Các Bit IE0 và IE1 được tự động xoá để báo rằng ngắt được hoàn tất và 8051 sẵn
sàng đáp ứng ngắt khác trên chân đó. Để ngắt khác được nhận và thì tín hiệu
trên chân đó phải trở lại mức cao và sau đó nhảy xuống thấp để được phát hiện
như một ngắt theo sườn âm.
·
Trong thời gian trình phục vụ ngắt
đang được thực hiện thì chân INTx bị
làm ngơ, 8051 không quan tâm đến nó có bao nhiêu lần chuyển dịch từ cao xuống
thấp. Trong thực tế điều này có được là do các bit IEx. Vì lý do này mà các bit IEx
được gọi là các cờ báo “ngắt đang được
phục vụ”, cờ này sẽ lên cao khi 1 sườn
âm được phát hiện trên chân INTx
và giữ ở mức cao trong toàn bộ quá
trình thực hiện ISR. Nó chỉ bị xoá sau
lệnh cuối cùng của ISR. Do vậy, ta cũng sẽ không bao giờ cần đến
các lệnh xoá cờ này trong trình phục vụ ngắt đối với các ngắt cứng INT0 và INT1.
4 Lập trình ngắt truyền thông nối tiếp
Trong
các bài trước chúng ta đã nghiên cứu về truyền thông nối tiếp của 8051. Tất cả
các ví dụ trong ấy đều sử dụng phương pháp thăm dò (polling). Ở chương này chúng ta sẽ khám phá phương pháp truyền thông nối
tiếp dựa trên ngắt.
4.1 Các cờ RI và TI và các ngắt
Như
đã nói ở bài trước thì cờ ngắt truyền TI
(Transfer interrupt) được bật lên khi bit cuối cùng của khung dữ liệu - bit stop được truyền đi, báo rằng thanh
ghi SBUF sẵn sàng truyền byte kế
tiếp. Trong trường hợp cờ RI
(Receive Interrupt) thì nó được bật lên khi toàn bộ khung dữ liệu kể cả bit stop đã được nhận.
Chừng
nào còn nói về truyền thông nối tiếp thì tất cả mọi khái niệm trên đây đều áp
dụng giống như nhau cho dù sử dụng phương pháp thăm dò hay sử dụng phương pháp
ngắt. Sự khác nhau duy nhất giữa hai phương pháp này là ở cách phục vụ quá
trình truyền thông nối tiếp như thế nào:
Ø Trong phương pháp thăm dò thì chúng ta phải đợi cho cờ (TI hay RI) bật lên và trong lúc chờ đợi thì ta không thể làm gì được cả.
Ø Còn trong phương pháp ngắt thì ta được báo khi 8051 đã nhận
được một byte hoặc nó sẵn sàng truyền byte kế tiếp và ta có thể làm các công
việc khác trong khi chờ truyền thông nối tiếp được thực hiện.
Trong
8051 chỉ có một ngắt dành riêng cho
truyền thông nối tiếp. Ngắt này được dùng cho cả truyền và nhận dữ liệu. Nếu bit ngắt truyền thông ES - IE.4 trong thanh ghi IE được
phép, thì khi 1 trong 2 cờ RI hoặc TI bật lên, 8051 sẽ nhận được ngắt và
nhảy đến địa chỉ trình phục vụ ngắt dành cho truyền thông nối tiếp 0023H trong
bảng vector ngắt để thực hiện nó. Trong trình ISR này chúng ta phải kiểm tra các cờ TI và RI để xem cờ nào
gây ra ngắt để đáp ứng một cách phù hợp (xem ví dụ 6).
Hình 14: Ngắt truyền thông có thể do
hai cờ TI và RI gọi.
4.2 Sử dụng cổng COM nối tiếp trong 8051
Trong các ứng dụng, ngắt nối tiếp chủ yếu
được sử dụng để nhận dữ liệu và không bao giờ được sử dụng để truyền dữ liệu
nối tiếp. Điều này giống như việc báo chuông để ta biết và nhận điện thoại
vì ta không thể biết trước được lúc nào có điện thoại, còn nếu muốn gọi điện
thoại thì ta không cần đổ chuông để báo trước.
Ví dụ 6:
Hãy
viết chương trình ngắt để 8051 nhận dữ liệu từ cổng nối tiếp COM và gửi đến cổng P0. Giả thiết tần số XTAL là 11.0592MHz
và tốc độ baud 9600.
Lời giải:
#include<at89x51.h> //Khai báo thư viện cho 89c51
main() //Chương trình chính
{
TMOD=0x20; //Chọn
Timer1, chế độ 2
TH1=0xFD; //Cài đặt tốc độ baud 9600
SCON=0x50; //0101
0000: Chọn chế độ 1, Cho phép nhận
TR1=1; //Khởi động Timer1
IE=0x90; //cho phép ngắt truyền thông
nối tiếp
while(1) //Vòng
lặp vô hạn
{
}
}
void nhandulieu(void) interrupt 4 //Khai báo ISR truyền thông nối tiếp
{
if(RI==1) //Kiểm tra có phải là ngắt
nhận dữ liệu không
{
P0=SBUF; //Gửi dữ liệu đến cổng P0
RI=0; //Xóa cờ nhận dữ liệu nối tiếp RI
}
}
Hình 15: Mô
phỏng nhận các ký tự 0,1,2,3,4,
từ máy tính, gửi đến Port0.
Trong
ví dụ trên ta chú ý đến vai trò của cờ RI.
Trong trình phục vụ ngắt nối tiếp, ta phải kiểm tra cả cờ TI và cờ RI vì cả hai
đều có thể gọi ngắt truyền thông nối tiếp, hay nói cách khác là chỉ có một ngắt
cho cả truyền và nhận.
4.3 Xoá cờ RI và TI trước khi thoát khỏi ngắt truyền thông nối
tiếp
Để
ý rằng lệnh cuối cùng trước khi trở về từ ISR
là lệnh xoá các cờ RI và TI. Điều này tương phản với ngắt ngoài và ngắt bộ định thời là đều được
8051 xoá các cờ.
5. Các mức ưu tiên ngắt trong 8051
5.1 Các mức ưu tiên trong quá trình bật lại nguồn
Khi
8051 được cấp nguồn thì các mức ưu tiên ngắt được gán theo Hình 16. Từ hình này ta thấy ví dụ nếu các ngắt phần cứng ngoài 0
và 1 được kích hoạt cùng một lúc thì ngắt ngoài 0 sẽ được đáp ứng trước. Chỉ
sau khi ngắt INT0 đã được phục vụ xong thì INT1 mới được phục vụ vì INT1 có mức
ưu tiên thấp hơn. Trong thực tế sơ đồ mức ưu tiên ngắt trong bảng chỉ là một
quy trình thăm dò, trong đó 8051 thăm dò các ngắt theo trình tự cho trong hình 16 và đáp ứng chúng một cách phù
hợp.
Hình 17: Thanh ghi
mức ưu tiên ngắt IP: Bit ưu tiên = 1 là mức ưu tiên cao, Bit ưu tiên = 0 là mức
ưu tiên thấp.
-
Bit D7 và D6 -- chưa dùng.
-
Bit D5 hay PT2 là Bit ưu tiên ngắt Timer2 (dùng cho 8052)
-
Bit D4 hay PS là Bit ưu tiên ngắt cổng nối tiếp
-
Bit D3 hay PT1 là Bit ưu tiên ngắt Timer1
-
Bit D2 hay PX1 là mức ưu tiên ngắt ngoài 1
-
Bit D1 hay PT0 là mức ưu tiên ngắt Timer 0
-
Bit D0 hay PX0 là mức ưu tiên ngắt ngoài 0
5.2 Thiết lập mức ưu tiên ngắt với thanh ghi IP
Chúng
ta có thể thay đổi trình tự trong hình
16 bằng cách gán mức ưu tiên cao hơn cho bất kỳ ngắt nào. Điều này được
thực hiện bằng cách lập trình một thanh ghi gọi là thanh ghi mức ưu tiên ngắt IP (Interrupt Priority). Trên hình
17 là các bit của thanh ghi này. Khi bật lại nguồn thanh thi IP chứa hoàn toàn các số 0 để tạo ra trình tự ưu tiên ngắt theo Hình 16. Để một ngắt nào đó có mức ưu
tiên cao hơn ta thực hiện đưa bit tương ứng lên cao.
Một
điểm khác nữa cần được làm sáng tỏ là mức ưu tiên ngắt khi 2 hoặc nhiều bit ngắt trong thanh ghi IP được đặt lên cao: Trong
trường hợp này thì trong khi các ngắt này có mức ưu tiên cao hơn các ngắt khác,
chúng sẽ được phục vụ theo trình tự cho trong Hình 16.
5.3 Ngắt trong ngắt
Điều
gì xảy ra nếu 8051 đang thực hiện một trình phục vụ ngắt thuộc một ngắt nào đó
thì lại có một ngắt khác được kích hoạt? Trong những trường hợp như vậy thì 1 ngắt có mức ưu tiên cao hơn có thể ngắt 1
ngắt có mức ưu tiên thấp hơn. Đây gọi là ngắt trong ngắt. Trong 8051 một
ngắt ưu tiên thấp có thể bị ngắt bởi một ngắt có mức ưu tiên cao hơn chứ không
bị ngắt bởi một ngắt có mức ưu tiên thấp hơn. Mặc dù tất cả mọi ngắt đều được
chốt và giữ bên trong nhưng không có ngắt mức thấp nào được CPU quan tâm ngay
tức khắc, nếu 8051 chưa kết thúc phục vụ các ngắt mức cao.
5.4 Thu chộp ngắt bằng phần mềm (Triggering)
Có
nhiều lúc ta cần kiểm tra một trình phục vụ ngắt bằng con đường mô phỏng. Điều
này có thể được thực hiện bằng các lệnh đơn giản để thiết lập các ngắt lên cao
và bằng cách đó buộc 8051 nhảy đến bảng vector ngắt. Ví dụ, nếu bit cho phép
ngắt Timer1 trong thanh ghi IE được bật lên 1 thì một lệnh như TF1=1;
sẽ ngắt 8051 ngừng thực hiện công việc đang làm bất kỳ và buộc nó nhảy đến bảng
vector ngắt timer1. Hay nói cách khác, ta không cần đợi cho Timer1 quay trở về
0 mới tạo ra ngắt. Chúng ta có thể gây ra một ngắt bằng các lệnh đưa các bit
của ngắt tương ứng lên cao.
Như
vậy qua bài này chúng ta đã biết ngắt là một sự kiện bên trong hoặc bên ngoài
gây ra ngắt bộ vi điều khiển để báo cho nó biết rằng thiết bị cần được phục vụ.
Mỗi một ngắt có một chương trình đi kèm với nó được gọi là trình phục vụ ngắt ISR. Bộ vi điều khiển 8051 có 6 ngắt,
trong đó có 5 ngắt người dùng có thể truy cập được. Đó là: 2 ngắt cho các
thiết bị phần cứng bên ngoài INT0 và
INT1, 2 ngắt cho các bộ định thời là
TF0 và TF1 và 1 ngắt dành cho truyền
thông nối tiếp.
8051
có thể được lập trình cho phép hoặc cấm một ngắt bất kỳ cũng như thiết lập mức
ưu tiên cho nó theo yêu cầu của thuật toán ứng dụng.
Thanks!
Trả lờiXóaĐã có thêm bài ngắt.hi
Trả lờiXóamong bạn viết thêm ngắt trong hệ điều hành rtx51tny thì đầy đủ hơn nữa
Trả lờiXóaBài viết của bác rất hay, ngắn gọn và đủ hiểu. hiện em cũng làm được một số thứ rồi, nhưng em muốn thêm là khi chương trinh điều khiển từ PC không chạy nữa thì IC sẽ tắt hết những thiết bị nó đang điều khiển. không biết có làm được không, mong các bác tư vấn với.
Trả lờiXóaChào vannam!
Trả lờiXóaVậy trước hết bạn phải xác định được:
+ Khi nào thì chương trình trên PC sẽ không chạy nữa?
+ Làm sao để vi điều khiển nhận biết được điều đó?
Bạn có thể lập trình cho chương trình trên PC, sao cho trước khi tắt nó sẽ gửi xuống VĐK 1 tín hiệu thông báo chẳng hạn...
Cảm ơn bác Tjtanja đã cho em ý tưởng, nhưng em nghĩ không phải lúc nào chương trình cũng thoát một cách chính thống bằng cách click Exit hoặc nút [x]. đấy mới là điều em đang phải suy nghĩ. nếu từ chíp để kiểm tra chương trình còn chạy từ VĐK thì tốt nhất. mong các bác có ý tưởng khác gợi ý em với. Em xin chân thành cảm ơn các bác.
Trả lờiXóaHoặc lúc chương trình đang chạy, thì định kỳ gửi tín hiệu thông báo xuống VĐK, nếu một thời gian dài mất tín hiệu đó thì có thể khẳng định chương trình đã ngừng hoạt động.
Trả lờiXóaCảm ơn bác Tjtanja, em đang viết ngược lại ý tưởng của bác là gửi định kỳ 1 phút 1 lần từ VSL lên PC, nếu không thấy chương trình phản hồi lại thì sẽ dừng điều khiển thiết bị của VSL. em đang viết khi nào có kết quả sẽ báo cáo anh em sau vây.
Trả lờiXóaem muốn dừng 1 xung đang chạy thì almf cách nào?
Trả lờiXóacảm ơn bác nhiều lắm !!
Trả lờiXóahay quá,học phần này bằng ASM thấy khó hiểu nhưng khi lập trình bằng C thì thấy dễ hiểu hơn rôi! thank bác nhiều!
Trả lờiXóaCho em xin tài liệu về ngắt ngoài.
Trả lờiXóaThank!
Trả lờiXóacó ai cho mình biết kiến thức này từ quyển sách nào không.Thank
Trả lờiXóaHay lam.thanks
Trả lờiXóacám ơn bạn,bài viết rất hữu ích
Trả lờiXóacám ơn bài viết của bạn
Trả lờiXóa